Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2018

PHÂN TÍCH KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN – BÀI 3 ĐƯỜNG XU HƯỚNG

tác dụng chủ chốt Đường xu hướng – trendline – là giúp người chơi làm nổi bật điểm kháng cự và giúp sức trên biểu đồ.

Xem thêm: PHÂN TÍCH KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN – BÀI 4 KÊNH XU THẾ

Xem video bài giảng phân tích kỹ thuật về đường xu hướng

https://www.youtube.com/watch?v=DQ71sOhnlFk&feature=youtu.be

Vậy đường xu hướng (Trendlines) là gì?

Xu hướng (trend) có 3 cấp: xu hướng chính, xu hướng trung gian, xu hướng ngắn hạn. Theo lý thuyết Dow xu hướng chính có thể kéo hơn một năm trở lên. Xu hướng trung gian từ 3 tuần đến nhiều tháng, xu hướng ngắn hạn là những gì kéo dài dưới 3 tuần.

Hầu hết các hệ thống chỉ báo xu hướng là theo dõi xu hướng trung gian.

Vai trò của đường xu hướng:

• phục vụ chiến lược Trend following để nhập cuộc thị trường.

• Xác định chiều hướng của thị trường.

• Xác định dấu hiệu đảo chiều

• Xác định dấu hiệu nối tiếp xu hướng

• Xác định các điểm kháng cự và trợ giúp.

Cách sử dụng đường xu hướng sao cho hiệu quả

Phân tích kỹ thuật chứng khoán đường xu hướng

Phân tích kỹ thuật chứng khoán đường xu hướng

Khi biểu đồ lạnh lẽo chạy, đồng nghĩa với việc sẽ sản xuất những điểm cao, thấp khác nhau. Tuy nhiên nếu game thủ nhìn bao la ra sẽ thấy những điểm cao, thấp này đang có xu hướng đi lên hoặc đi xuống. Từ đó người chơi sẽ xác định được đường xu hướng dễ dàng. Thị trường tăng trưởng sẽ có xu hướng tạo một đường hỗ trợ cũng tăng dần theo.

Phân tích kỹ thuật chứng khoán đường xu hướng

Phân tích kỹ thuật chứng khoán đường xu hướng

game thủ có thể nhìn thấy trong hình, tất cả các giai đoạn rét hồi ngược xuống đều không vượt qua được đường xu hướng này. (4 Điểm khoanh tròn). Suy ra là game thủ có thể sử dụng đường xu hướng này để dự đoán điểm đảo chiều tiếp theo trên thị trường. Làm ngược lại cũng hoàn toàn được, vẽ đường xu hướng kháng cự và nắm chính xác điểm đảo chiều xuống khi rét mướt chạm vào đường xu hướng.

Hình bên dưới người chơi đơn giản nhìn thấy xu hướng kháng cự kết thúc tại đường xu hướng ở phía trên và đảo chiều đi xuống lại. Qua hai hình trên game thủ đã rõ ràng hơn mục đích của đường xu hướng rồi chứ. Đường xu hướng giúp người chơi xác định ra vùng hỗ trợ và kháng cự.

Phân tích kỹ thuật chứng khoán đường xu hướng

Phân tích kỹ thuật chứng khoán đường xu hướng

Khi đường xu hướng bị phá vỡ thì sao? Khi đường xu hướng bị phá vỡ thì sẽ khó phân tích hơn tuy nhiên thị trường vẫn luôn phát hành những điểm hỗ trợ, kháng cự thế hệ. Hình dưới là một ví dụ của việc đường xu hướng tạo kháng cự bị phá vỡ và biến thành đường xu hướng tạo trợ giúp. Khi thị trường đi xuống nó lại đẩy lạnh lẽo lên.

Những gì được trình bày trong bài viết này là những chức năng chủ đạo của đường xu hướng. Tất nhiên là chúng ta có thể làm nhiều việc hơn với đường xu hướng. Hãy đón đọc những bài sau để biết được cách sử dụng đường xu hướng tốt hơn (sẽ cập nhật sau)

  • Cách xử lý khi đường xu hướng bị phá vỡ
  • Sự phá vỡ xu hướng cổ xưa
  • Ví dụ về tín hiệu đảo ngược tại các đường được vẽ
  • Cấu trúc được phát triển (tốt và xấu)

Tổng kết về đường xu hướng

Khi thị trường chuyển động lên xuống sẽ sản xuất những điểm giúp đỡ và kháng cự ở nhiều mức rét không giống nhau. Từ đó người chơi có thể xác định được đường xu hướng và xây dựng chiến lược giao dịch dựa trên những đường xu hướng đó

Thứ Năm, 29 tháng 3, 2018

PHÂN TÍCH KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN – BÀI 2 ĐƯỜNG TRUNG BÌNH ĐỘNG VÀ BOLLINGER

Làm Trader hay theo trường phái phân tích kỹ thuật chứng khoán chắc hẳn ai cũng biết đường trung bình thiết bị cầm tay (MA) và đường Bollinger: một kỹ thuật khiến cho lạnh lẽo trên đồ thị trở nên “mềm mại hơn” và cho chúng ta thấy được tín hiệu của thị trường tốt nhất và đưa ra những quyết định mua bán chứng khoán tốt nhất.

Xem thêm: PHÂN TÍCH KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN – BÀI 3 ĐƯỜNG XU HƯỚNG

Video bài giảng phân tích kỹ thuật chứng khoán về đường trung bình động(MA) và BOLLINGER BAND

https://www.youtube.com/watch?v=O-5CU8GH7IQ&feature=youtu.be

Đường trung bình động Moving Averages (MA) là gì?

Ở đây có hai nhân tố cần phải hiểu là trung bình và động.

* Trung bình có nghĩa rằng, một Moving Average (một MA) là một mức rét trung bình của chứng khoán tại một thời điểm. Cụ thể theo toán học:

một MA = tổng các mức rét mướt của chứng khoán trong n khoảng thời gian gần nhất / n

Ví dụ, lấy các mức lạnh lẽo của chứng khoán trong 25 ngày gần nhất và chia cho 25 ta sẽ có hậu quả là lạnh lẽo trung bình của chứng khoán trong vòng 25 ngày qua. Đây chính là một MA 25 ngày của chứng khoán đó. Nhiều mức lạnh trung bình đó chia thành một dãy liên tục gọi là đường Moving Averages (MA).

* Động được hiểu là do n mức lạnh lẽo chứng khoán luôn biến đổi nên các mức giá buốt trung bình cũng chuyển đổi theo khiến cho đường trung bình luôn di chuyển (hay còn gọi là di động) theo các mức rét.

Hình vẽ – Đường trung bình động SMA của 25 ngày

Hình vẽ – Đường trung bình động SMA của 25 ngày

Ý nghĩa của đường trung bình động Moving Averages (MA) trong phân tích kỹ thuật chứng khoán

Vì đường trung bình MA là lạnh trung bình của chứng khoán 25 ngày qua nên nó đại diện cho sự đồng thuận của các nhà đầu tư mong đợi trong 25 ngày gần nhất. Do đó, nếu giá buốt chứng khoán là trên đường trung bình MA của nó có nghĩa là kỳ vọng hiện tại của các nhà đầu tư (tức mức giá hiện tại) cao hơn so với kỳ vọng trung bình của họ trong 25 ngày qua, và các nhà đầu tư đang trở nên lạc quan hơn về giá chứng khoán dẫn đến tài năng rét mướt chứng khoán sẽ tăng.

Ngược lại, nếu rét ngày hôm nay là dưới điểm trung bình động của nó cho thấy rằng kỳ vọng hiện tại của các nhà đầu tư là dưới mức mong đợi trung bình của họ trong vòng 25 ngày qua, và điều đó có nghĩa là họ đang bi lụy hơn về lạnh chứng khoán dẫn đến khả năng rét chứng khoán sẽ giảm.

Các bạn muốn xem cách dùng đường MA có thể xem cach dung duong ma.

Đường trung bình MA nên được dùng liên kết với các chỉ báo kỹ thuật khác như MACD, RSI, Stochastic… và các đường xu hướng để có thể chọn được các điểm mua bán ra vào hợp lý.

BOLLINGER BANDS – DẢI BOLLINGER

Giới thiệu

Được John Bollinger sản xuất, Bollinger Bands là một dụng cụ cho phép người sử dụng so sánh độ bất định hình và các mức lạnh lẽo liên quan theo một khoảng thời gian. Công cụ này bao gồm 03 đường được xây dừng để xung quanh phần nhiều hoạt động của rét một cổ phiếu.

  1. Một đường trung bình ở giữa
  2. Một đường bên trên (SMA cộng 2 standard deviations)
  3. Một đường bên dưới (SMA trừ 2 standard deviations)

Standard deviation là một đơn vị đo lường thống kê cung cấp sự bình chọn độ bất bất biến của đồ thị lạnh lẽo. Sử dụng standard deviation đảm bảo các đường bollinger sẽ phục vụ nhanh với các biến động giá buốt và phản hồi độ bất bất biến cao hay thấp. Lạnh lẽo tăng hoặc giảm đột ngột sẽ phân thành dãy băng mênh mông.

Dải bollingger bands

Dải bollingger bands

Sử dụng

Ngoài việc xác định quan hệ giữa các mức lạnh lẽo và độ bất định hình, đường Bollinger Bands có thể đoàn kết với cô động lạnh lẽo và các khí cụ khác để đưa ra tín hiệu và dự báo các bất định cần thiết.

Đường lạnh lẽo xuống dải Bollinger dưới: tín hiệu mua được sinh ra khi đường rét mướt xuống và chạm dải Bollinger dưới thì khả năng bật lên lại của đường rét sẽ có thể sinh ra.

Đường giá buốt lên dải Bollinger trên: tín hiệu bán được sinh ra khi đường giá buốt lên và chạm dải Bollinger trên thì khả năng bật xuống lại của đường lạnh sẽ có thể xuất hiện.

Double tín hiệu mua : một tín hiệu Double Bottom Buy được tạo thành khi rét vượt qua đường bollinger dưới và nằm bên trên đường bollinger dưới sau khi tạo tiếp mức lạnh lẽo thấp tiếp theo. Mức rét thấp có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với mức rét mướt thấp trước đó. Điều quan trọng là mức thấp thứ hai phải nằm trên đường bollinger dưới. Rét mướt chuyển sang trọng xu hướng lên được xác định khi lạnh di chuyển lên trên đường bollinger giữa.

Double tín hiệu bán : Một tín hiệu Double Top Sell được tạo thành khi giá buốt vượt qua đường bollinger trên và đỉnh của đợt tăng rét mướt kế tiếp không vượt qua được đường bollinger trên. Lạnh chuyển sang xu hướng xuống được xác định khi lạnh di chuyển xuống bên dưới đường bollinger giữa.

Việc thay đổi rét mướt đột nhiên ngột có thể xảy ra sau khi dãy bollinger thu hẹp lại và sự bất ổn định thấp. Trong ví dụ này, đường bollinger không đưa ra bất kỳ tín hiệu nào về xu hướng của lạnh lẽo trong thời gian tới. Xu hướng phải được xác định bằng cách sử dụng các khí cụ phân tích kỹ thuật khác. Nhiều cổ phiếu chuyển sang cô động mạnh sau một khoảng thời gian cô động ít. Việc sử dụng đường bollinger có thể xác định mức độ biến động đơn giản bằng quan sát đồ thị. Dãy băng hẹp cho biết thị trường ít biến động và dãy băng rộng rãi cho biết thị trường cô động mạnh. Độ biến động có thể quan trọng với những game thủ “options” bởi vì rét của “options” sẽ rẻ hơn khi độ bất định thấp.

Dải Bollinger thu hẹp: dãy băng bollinger thu hẹp trước khi có cô động mạnh

Kết luận

mặc dầu đường Bollinger có thể giúp tạo các tín hiệu mua và bán, nhưng đường bollinger không được xây dừng để xác định xu hướng trong tương lai. Đường Bollinger được xây dừng để ngã sung cho việc phân tích kỹ thuật và các công cụ khác. Bạn dạng thân đường Bollinger đáp ứng 02 tính năng chính :

  • Xác định các khoảng thời gian độ bất định cao hoặc thấp
  • Xác định các khoảng thời gian rét đang ở mức kháng cự hay trợ giúp.

Như đã đề cập ở trên, rét mướt cổ phiếu có thể chuyển đổi qua lại giữa bất định mạnh và biến động thấp. Đường Bollinger có thể xác định khoảng thời gian biến động ít do đó có thể phục vụ vai trò một dụng cụ cảnh báo động thái của giá buốt cổ phiếu. Trong phân tích kỹ thuật, câu kết cùng các công cụ khác, đường bollinger có thể giúp xác định chiều của một cô động mạnh.

Hãy nhớ rằng tín hiệu mua và bán không được đưa ra khi lạnh lẽo chạm đường bollinger trên và dưới. Các mức này chỉ cho biết lạnh lẽo đang ở mức cao hoặc thấp trên một nền tảng tương đối.

Thứ Ba, 27 tháng 3, 2018

Phân tách KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN – BÀI 1 LÝ THUYẾT DOW

Trong phân tích kỹ thuật chứng khoán thì lý thuyết Dow là cơ sở đầu tiên cho mọi nghiên cứu kĩ thuật trên thị trường. Nó là cơ sở để thiết kế cũng như đối tượng nghiên cứu của lý thuyết chính là những biến động của phiên bản thân thị trường (thể hiện trong chỉ số trung bình của thị trường) và không hề dựa trên cùng cơ sở của phân tách căn bản là các thống kê hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Video bài giảng phân tách kỹ thuật thuật về lý thuyết Dow của thầy Trương Bình

LỊCH SỬ xuất hiện VÀ tạo ra LÝ THUYẾT DOW TRONG phân tích KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN

Trong những biên chép của người trước tiên đề ra lý thuyết này, Charles. H. Dow, có rất nhiều điều chứng tỏ rằng tác giả không hề nghĩ lý thuyết của mình sẽ trở thành một công cụ dùng cho dự báo thị trường chứng khoán hay thậm chí nó đã trở thành một hướng dẫn tầm thường cho các nhà đầu tư. Những ghi chép ấy chỉ nói lên rằng, ông muốn lý thuyết của mình sẽ trở thành một thước đo biến động phổ biến của thị trường. Dow xây dựng công ty “Dịch vụ thông tin tài chính Dow-Jones” và được mọi người biết tới với việc tìm ra chỉ số bình quân thị trường chứng khoán. Những lý lẽ cơ bản của thuyết giáo (ngày nay được đặt theo tên ông) đã được ông phác thảo ra trong một bài nghiên cứu mà ông viết cho “Tạp Chí Phố Wall”. Sau khi Dow mất, năm 1902, người kế tục ông làm chỉnh sửa cho tờ nhật báo, William. P. Hamilton, đã tiếp tục việc nghiên cứu lý thuyết này. Sau 27 năm nghiến cứu và viết các bài báo, ông đã doanh nghiệp và cấu trúc lại thành Lý thuyết Dow như ngày nay.

mày mò về lý thuyết của Dow, đầu tiên ta phải nghiên cứu tới chỉ số trung bình của thị trường. Nhìn chung giá chứng khoán của tất cả các tổ chức đều cùng lên và xuống. Bên cạnh đó, một số cổ phiếu lại chuyển động theo hướng trái lại xu thế bình thường của các cổ phiếu khác, cho dù là chỉ trong vài ngày hoặc vài tuần. Thực tế cho thấy khi thị trường lên giá thì giá của một số chứng khoán tăng cường hơn những chứng khoán khác, còn khi thị trường xuống giá thì một số chứng khoán giảm giá nhanh chóng Hình như có một số dị thường tăng lên, nhưng mà thực tế vẫn chứng minh rằng hầu như tất cả các chứng khoán đều ngả nghiêng theo cùng một xu thế chung.

Cùng với những cố gắng nghiên cứu của mình, Charles Dow là người đã đưa ra định nghĩa về “chỉ số giá bình quân” nhằm phản ảnh xu thế tầm thường của một số cổ phiếu đại diện cho thị trường. Hai loại chỉ số bình quân Dow-Jones được hình thành vào năm 1897 và vẫn còn cho đến cho đến hiện tại được Dow tìm ra và áp dụng trong các nghiên cứu của ông về xu thế thông thường của thị trường. Một trong hai loại chỉ số ấy là chỉ số của 20 công ty hỏa xa, loại còn lại gọi là chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones thuộc các ngành khác bao gồm 12 công ty mạnh nhất vào thời kỳ đó. Con số này tăng lên 20 công ty vào năm 1916 và tới 1928 là 30 doanh nghiệp.

12 phương pháp quan trọng TRONG LÝ THUYẾT DOW ĐỂ phân tích KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN

Khi nghiên cứu lý thuyết Dow có 12 phương pháp quan yếu cần chú ý sau:

1. Chỉ số bình quân thị trường phản ảnh tất cả (trừ hành động của Chúa)

bởi nó phản ánh những hoạt động có đoàn kết với nhau của hàng nghìn nhà đầu tứ, gồm cả những người có kinh nghiệm dự đoán thị trường giỏi nhất, có những thông báo tốt nhất về xu hướng và các sự kiện, những gì có thể nhận thấy trước và tất cả những gì có thể liên quan tới cung và cầu của các loại chứng khoán. Thậm chí cả những thiên tai hay thảm họa không dự tính được thì ngay khi xảy ra, chúng đã được thị trường phản ảnh ngay vào giá của các loại chứng khoán.

2. Ba xu thế của thị trường

Thuật ngữ thị trường nhằm chỉ giá chứng khoán tổng thể, nghiêng ngả của thị trường chia thành các xu thế giá, trong đó quan trọng nhất là các xu thế cấp 1 (xu thế chính hay xu thế cơ bản). Đây là những cô động tăng hoặc giảm với quy mô bự, thường kéo dài trong một hoặc nhiều năm và gây ra sự tăng hay giảm đến 20% giá của các cổ phiếu. Chuyển động theo xu thế cấp 1 sẽ bị đứt quãng do các bởi vì sự xen vào của các nao núng cấp 2 theo hướng đối lập – gọi là những phản ứng hay điều chỉnh của thị trường. Những biến động này xuất hiện khi khuynh hướng cấp 1 trợ thời vượt quá mức độ ngày nay của bạn dạng thân nó (gọi phổ biến các bất định này là các biến động trung gian – cô động cấp 2). Những biến động cấp 2 bao gồm những biến động giá nhỏ hay gọi là những biến động hàng ngày và không có ý nghĩa quan trọng trong Lý thuyết Dow.

3. Xu thế cấp 1

Như đã nói đến ở phần trước, xu thế cấp 1 là những chuyển động mập của giá, bao hàm cả thị trường, thường kéo dài hơn 1 năm và có thể là trong vài năm. Nếu như mỗi đợt tăng giá liên tục đều đạt tới mức cao hơn mức trước đó và mỗi điều chỉnh cấp 2 đều dừng lại ở mức đáy cao hơn mức đáy của lần điều chỉnh trước thì xu thế cấp 1 lúc này là tăng giá – thị trường lúc này là thị trường con bò tót – thị trường tăng giá (Bull Market) Còn trái lại nếu mỗi bất định giảm đều khiến cho giá xuống những mức thấp hơn còn mỗi điều chỉnh đều không đủ mạnh để làm cho giá tăng lên tới mức đỉnh của những đợt tăng giá trước đó thì xu thế cấp 1 của thị trường lúc này là giảm giá, thị trường được gọi là thị trường con gấu – thị trường giảm giá (Bear Market).

thường nhật, về lý thuyết thì xu thế cấp 1 chỉ là một trong 3 loại xu thế mà một nhà đầu bốn dài hạn quan tâm. Mục đích của nhà đầu tư đó là mua chứng khoán càng sớm càng tốt trong một thị trường lên giá, sớm đến mức anh ta có thể kiên cố rằng thế hệ có độc nhất mình anh ta mở đầu mua và sau đó nắm giữ đến khi và chỉ khi Bull Market đã thực sự ngừng và bắt đầu Bear Market. Nhà đầu bốn hiểu rằng họ có thể bỏ qua một cách bình yên tất cả những sự xen vào của các điều chỉnh cấp 2 và các chao đảo nhỏ do họ đầu tứ dài hạn theo xu thế chính của thị trường. Tuy nhiên với một kinh doanh chứng khoán ngắn hạn thì những biến động của xu thế cấp 2 lại có vai trò quan yếu bởi vì họ kiếm lợi nhuận dựa trên những cô động ngắn hạn của thị trường

4. XU THẾ CẤP 2

Xu thế cấp 2 là những điều chỉnh có tác động làm cách biệt quá trình vận động của giá theo xu thế cấp 1. Chúng là những đợt suy giảm tạm (trung gian) hay còn gọi là những điều chỉnh hiện ra ở các Bull Market; hoặc những đợt tăng giá hay còn gọi là hồi phục sinh ra ở các Bear Market. Thường thì những cô động trung gian này kéo dài từ 3 tuần tới nhiều tháng. Chúng sẽ kéo ngược lại khoảng 1/3 đến 2/3 mức tăng (hay giảm tùy loại thị trường) của giá theo xu thế cấp 1. Do đó, chẳng hạn trong Bull Market, nếu chỉ số giá bình quân công nghiệp tăng liên tục định hình hoặc có cách biệt rất bé và mức tăng đạt tới 30 điểm, khi đó hiện ra xu thế điều chỉnh cấp 2, thì người ta có thể chờ mong xu thế điều chỉnh này có thể làm giảm từ 10 tới 20 điểm cho đến khi thị trường lặp lại xu thế upgrade 1 lúc đầu của nó.

Dẫu sao cũng cần xem xét là qui tắc giảm 1/3 đến 2/3 không phải là một quy tắc chẳng thể phá vỡ vạc nhưng mà nó dễ dàng chỉ là một nhận xét về kĩ năng có thể xảy ra mà hồ hết các bất định cấp 2 đều bị giới hạn trong mức này. Rất nhiều trong số đó kết thúc thúc đẩy ở điểm gần với mức 50% nhưng rất thi thoảng khi đạt tới mức 1/3. Như vậy có 2 tiêu chí để nhận định một xu thế cấp 2: Tất cả những chuyển động của giá ngược hướng với xu thế cấp 1 kéo dài ít nhất 3 tuần và kéo hoàn lại chí ít 1/3 mức cô động thức của xu thế cấp 1 (tính từ điểm chấm dứt biến động cấp 2 trước đó đến biến động cấp 2 này, bỏ qua những nao núng nhỏ) thì được coi là thuộc loại trung gian hay còn gọi là biến động cấp 2. Mặc dầu đã có những tiêu chí để xác định một xu thế cấp 2 nhưng vẫn có những gian nan trong việc xác định thời điểm hiện ra và thời gian sống sót của xu thế.

5. Xu thế nhỏ (Minor)

Đây là những dao động trong thời gian ngắn (dài tối đa 3 tuần, hường chỉ dưới 6 ngày) mà theo như thuyết Dow đã nói đến, bạn dạng thân chúng không đích thực có ý nghĩa mà chúng góp phần tạo nên các xu thế trung gian. Thường ngày thì một biến động trung gian dù là một xu thế cấp 2 hay là một phần của xu thế cấp 1 xen giữa nhị xu thế cấp 2 liên tục, đều được chia thành từ một dãy gồm 3 hoặc nhiều hơn những nghiêng ngả bé không giống nhau. Xu thế nhỏ là dạng độc nhất vô nhị trong 3 loại xu thế có thể bị “lôi kéo” (bị tác động). Để tác động vào xu thế cấp 1 và 2 thì cần những giao dịch với khối lượng rất mập và điều này hầu như là chẳng thể.

Để làm rõ khái niệm về 3 xu thế của thị trường, ta có thể so sánh với cô động của sóng biển với một số điểm giống nhau như sau:

Xu thế cấp 1 trong giá chứng khoán giống như những đợt thủy triều lên hoặc xuống. Có thể so sánh thị trường lên giá (Bull Market) với thủy triều lên. Thủy triều dâng nước lên bờ đại dương ngày một xa vào sâu trong bờ và tới đỉnh của thủy triều thì lại quay ngược trở về đại dương. Khi thủy triều rút lại được so sánh với thị trường xuống giá (Bear Market). Và cho dù trong lúc thủy triều lên hay xuống thì luôn có những con sóng đập vào bờ rồi lại lùi lại về đại dương. Khi thủy triều lên mỗi con sóng liên tục nhau vào bờ, sóng sau vào sâu hơn sóng trước lại góp phần làm thuỷ triều vào xa hơn trong bờ, mà khi thủy triều xuống mỗi con sóng không mang nước ra xa bờ nhưng nước giảm xuống là vì sóng sau vào đến bờ ở mức thấp hơn (tụt lại hơn) so với đỉnh của sóng trước, mỗi con sóng bởi vì đó sẽ trả lại dần dần bờ biển như trước khi thủy triều lên. Những con sóng này là các xu thế trung gian, có thể cấp1 hoặc cấp 2 tùy thuộc hướng chuyển động của nó so với hướng của thủy triều vào thời điểm xảy ra xu thế đó.

Mặt hồ cũng xoành xoạch cô động với những gợn sóng gập ghềnh chuyển động cùng chiều, ngược chiều hoặc chuyển động ngang so với hướng của những con sóng to – những gợn sóng này biểu hiện cho các xu thế nhỏ (những chao đảo hàng ngày có vai trò không quan trọng như đã nói ở phần trên). Những đợt thủy triều, những con sóng và những gợn sóng bé chính là những hình ảnh so sánh giống nhất đối với những biến giá của một thị trường. Trong những phần sau ta sẽ còn coi xét đến một lý thuyết khác về thị trường gọi là Lý thuyết Sóng Elliott, trong đó mọi cô động của thị trường đều gắn trực tiếp với các con sóng.

6. Bull Market (thị trường con bò tót – thị trường tăng giá)

Một xu thế tăng giá căn bản thường bao gồm 3 thời kì.

thời gian trước tiên là quá trình “tích tụ”, trong quá trình này, những nhà đầu tứ có tầm nhìn xa sẽ tiến hành phê duyệt các đơn vị, có thể vào thời gian này tổ chức đang suy thoái nhưng nhà đầu tư nhận thấy tài năng doanh ngiệp có thể chuyển biến tình xuất hiện tăng trưởng lập cập, có thể giá cổ phiếu của nó sẽ tăng trong thời gian tới. Đây cũng là thời điểm nhưng mà cổ phiếu này đang được chào bán rất nhiều bởi vì những nhà đầu bốn đang có tâm lý rất chán nản và lo âu về tình trạng của những cổ phiếu của họ và để nhằm tăng dần giá chào bán của họ khi thị trường sinh ra sự suy giảm trong khối lượng giao tiếp. Các bạn dạng thông báo tài chính của doanh nghiệp đó có thể không tốt thậm chí rất tồi. Công chúng hoàn toàn cảm thấy thất vọng khi tham dự vào thị trường chứng khoán bởi họ thấy lượng tiền đã đầu tứ của họ đang giảm giá trị nhanh chóng và có nguy cơ còn giảm nữa, bởi vậy mà họ muốn thoát ra khỏi thị trường. Ngoại giả có thể nhận thấy một điều vào cuối giai đoạn thứ nhất này là trong hoạt động của tổ chức và trong những bất định trên thị trường đã có những lay chuyển tuy thế hệ chỉ ở mức hạn chế, khởi đầu hiện ra những đợt tăng giá bé.

Thời kỳ thứ 2 là thời kỳ của sự tăng trưởng khá vững chắc. Họat động của doanh ngiệp đang theo dõi gia tăng nhanh cùng với những khởi dung nhan trong nội bộ công ty và doanh thu của nó cũng tăng dần và mở đầu hấp dẫn các mối quan hoài trên thị trường. Đây chính là thời gian mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà kinh doanh chứng khoán theo môn phái phân tách kỹ thuật.

rút cuộc là thời kì thứ 3, trong thời gian này thị trường sục sôi với những cô động của nó. Công chúng rất náo nức với từng cô động của thị trường. Tất cả các thông báo tài chính của công ty đưa ra đều rất tốt, giá chứng khoán tăng cao ngoài sức tưởng tượng và đang là những vấn đề sốt dẻo được đưa lên trang đầu của các tờ báo ra hàng ngày. Tới thời khắc sau khoảng nhì năm tính từ lúc thị trường mở màn đi lên, những người ít kinh nghiệm có thể thế hệ cho rằng thị trường lúc này mới vững chắc cho lợi nhuận của họ và muốn tham gia vào thị trường. Nhưng mà thực thụ thì sau nhì năm, giá đã tăng khá cao, câu hỏi nên đặt ra vào lúc này là “nên bán cổ phiếu nào? ” Chứ không còn là “nên mua cổ phiếu nào ? ” Nữa. Vào cuối thời gian thứ 3, người ta có thể thấy nạn đầu cơ tràn lan, khối lượng giao tiếp vẫn tiếp tục tăng nhưng mà “air-pocket-stock”* hình thành càng ngày càng nhiều, số lượng cổ phiếu có giá thấp nhưng không có giá trị đầu tư cũng gia tăng và cả những đợt tạo ra trái khoán cũng ít dần đi.

(* Air-pocket-stock là những cổ phiếu đột ngột giám giá mạnh một cách thất thường – có thể là bởi nhà đầu tứ bán ồ ạt do một tin đồn xấu. Lý bởi dùng định nghĩa này là vì nó được so sánh với việc máy bay bỗng nhiên ngột mất độ cao, ngoài khả năng kiểm soát khi gặp mặt air-poket là những dòng khí hướng xuống, tương tác làm mất chiều cao máy bay)

7. Bear Market (Thị trường con gấu – thị trường giảm giá)

Xu thế giảm giá của thị trường cũng được chia thành ba thời kỳ.

Thời kỳ đầu tiên là thời kỳ “phân bổ” (thời kỳ này đích thực khởi đầu ở thời đoạn cuối của Bull Market trước đó). Trong thời kỳ này những nhà đầu bốn có tầm nhìn xa đều nhận thấy rằng doanh thu (và các chỉ số kinh doanh nói chung) của những công ty nhưng mà họ đang nắm giữ cổ phiếu đều đang đạt mức cao không thông thường và họ muốn nhanh lẹ thoát khỏi vị thế chiếm hữu cổ phiếu của những công ty này. Khối lượng giao tế vẫn rất cao dù rằng đã có những dấu hiệu của thiên hướng giảm, công chúng vẫn rất “năng động” nhưng cũng mở màn có dấu hiệu lo âu và cũng không còn nhiều kỳ vọng kiếm lợi nhuận.

Thời kỳ thứ hai được gọi là thời kỳ “hỗn loạn”. Số lượng người mua bắt đầu giảm dần và những người bán mở đầu trở lên nhanh nhẹn bán đi những cổ phiếu mình đang nắm giữ. Xu thế giảm giá mở đầu tăng mạnh làm đồ thị giá gần như dốc thẳng xuống và khối lượng giao tiếp đạt đến mức đỉnh điểm. Thời đoạn này được gọi là hỗn loàn bởi vì sự sụt giảm thường xảy ra rất trầm trọng thậm chí là thái quá với mức độ vượt quá cả thực trạng của các công ty. Sau thời đoạn hỗn loạn có thể có giai đoạn bình phục (một dạng xu thế cấp hai) hoặc một giai đoạn nghiêng ngả ngang của đồ thị thị trường (các nao núng không có hướng đi lên hay đi xuống nhưng là nghiêng ngả trong một khoảng nhất thiết theo chiều ngang của thị trường) trong một thời gian tương đối dài. Giai đoạn này trình bày tâm lý chán nản của một phòng ban nhà đầu tư, họ cũng chính là những người đã cố gắng nắm giữ cổ phiếu qua thời kỳ hỗn loạn trước đó hoặc cũng có thể là những người đã mua cổ phiếu trong thời kỳ đó do lúc đó giá của cổ phiếu rõ ràng là rẻ hơn rất nhiều so với trước đó vài tháng. Thông tin về các đơn vị ngày càng xấu đi. Hoàn thành thời đoạn này mới bước vào thời kỳ thứ ba.

Vào thời kỳ thứ ba, xu thế đi xuống trên thị trường đã yếu dần, nhưng lại được duy trì vì những lệnh bán nhiều và liên tục biểu thị “nỗi buồn” và sự lo âu của những nhà đầu tứ đang rất cần tiền cho những nhu cầu riêng của họ. Các cổ phiếu đều giảm tới mức thấp nhất, thậm chí gần như mất hoàn toàn giá trị. Những cổ phiếu có chất lượng cao hầu như không được giao dịch bởi những người chiếm hữu chúng đều muốn nắm giữ đến cùng. Ở thời đoạn cuối của Bear Market, như một kết quả của toàn cục thời kỳ giảm giá trước, cả thị trường chỉ tụ hội vào giao tiếp một số loại cổ phiếu. Bear Market dứt tất cả với những tin xấu về các đơn vị, về thị trường ở mức có thể coi là tồi tệ nhất đã biểu thị ra và có thể đến

8. Nhị đường chỉ số bình quân của thị trường phải cùng công nhận xu thế của thị trường.

Đây là câu hỏi thường xuyên đặt ra nhất và cũng khó giải thích nhất đối với hệ thống các phép tắc của lý thuyết Dow. Ngoài ra từ khi được đưa ra cho tới nay nó đã được thời kì chứng minh tính đúng đắn và nó vẫn được vận dụng cho tới hiện tại và bất kì một ai đã xem xét những số liệu đánh dấu thì đều không thể có quan điểm phản đối với phương pháp này. Còn với những người ít quan tâm hay bỏ qua nguyên lý này thì trong thực tại kinh doanh đã và sẽ phải nhiều lần cảm thấy tiếc. Điều phép tắc này muốn nói tới là chẳng thể có một dấu hiệu chính xác nào về sự chỉnh sửa xu thế thị trường có thể được khẳng định chỉ chuẩn y phê duyệt bất định của độc nhất vô nhị một loại chỉ số bình quân (ở đây muốn nói tới những thị trường bao gồm nhiều chỉ số bình quân, chả hạn như ở Mỹ, như nói ở phần đầu, có nhị loại chỉ số bình quân).

Phân tích kỹ thuật chứng khoán - ký thuyết dow

phân tích kỹ thuật chứng khoán – ký thuyết dow

  • Chỉ số bình quân bên dưới chỉ ra thị trường đi xuống
  • Chỉ số bình quân phía trên chỉ ra thị trường đi lên

Như vậy thị trường sẽ vẫn đi xuống do cả nhì không cùng công nhận một sự đảo chiều trong xu thế ngày nay của thị trường.

Chỉ khi nào cả chỉ số bình quân cũng chỉ ra là thị trường đang có xu thế đi lên thì ta mới có cơ sở xác nhận một dấu hiệu về sự đổi chiều của xu thế chính. Trong hình vẽ trên, trừ khi có một biến động nào khác nếu không chỉ duy nhất chỉ số bình quân bên dưới sẽ không để chuyển hướng thông thường của thị trường nhưng mà thậm chí còn bị kéo xuống. Xu thế cấp 1 của thị trường rõ ràng vẫn chưa rõ ràng. Đây là một tỉ dụ áp dụng lý lẽ về sự xác nhận. Không quan trọng cả nhì chỉ số bình quân phải cùng công nhận vào 1 ngày. Thường thì cả nhì chỉ số này sẽ cùng chuyển động đến cùng một khoảng đỉnh hoặc đáy mới, nhưng có nhiều trường hợp nhưng mà một trong nhị chỉ số sẽ trễ hơn chỉ số kia vài ngày, vài tuần, thậm chí là một tới nhì tháng. Trong những tình huống như vậy thì nhà đầu bốn phải giữ nhẫn nại và đợi cho tới khi thị trường thật sự biểu thị ra thực chất khuynh hướng của nó.

9. Khối lượng giao thiệp vận dụng kèm với xu thế thị trường.

Điều này biểu hiện một thực tại là khi giá cô động theo đúng xu thế cấp 1 thì các họat động kinh doanh trên có xu hướng mở mang hơn. Thành ra, với Bull Market, khối lượng giao tiếp sẽ tăng nếu giá tăng, và sẽ thu lại nếu giá giảm; với Bear Market giá trị giao thiệp sẽ tăng nếu giá giảm và ít khi giá có dấu hiệu bình phục. Điều này vẫn đúng ở chừng độ thấp hơn tức là với những xu thế cấp 2, khác lạ là trong giai đoạn đầu của một xu thế bình phục cấp 2 trong một Bear Market, khi nhưng các tình tiết của thị trường chỉ ra rằng giá sé tăng lên theo một số đợt tăng giá nhỏ, còn các cô động kéo giá xuống giảm đi.

Các kết luận ở đây thường không có giá trị nếu chỉ dựa trên tình tiết trong vài ngày và càng không có giá trị với những kết luận dựa trên một phiên giao thiệp đơn nhất. Phép tắc này chỉ phát huy hiệu quả nếu dựa trên những diễn biến của khối lượng giao tiếp phổ biến trong thời gian giao tiếp tương đối dài. Hơn nữa, theo Lý thuyết Dow thì chỉ dựa trên những phân tách về giá thế hệ có thể đưa ra được những dấu hiệu mang tính quyết định về xu thế thị trường, còn khối lượng giao tế chỉ có thể cung cấp thêm những chứng cứ phụ để giảng giải rõ hơn biến động của thị trường và sử dụng vào những tình huống khi dấu hiệu chính tỏ ra còn nhiều nghi hoặc.

10. Đường ngang có thể thay thế cho các xu thế cấp 2.

Đường ngang theo khái niệm của Lý thuyết Dow là những chuyển động ngang có tính chất trung gian của thị trường phản chiếu thời kỳ mà giá biến động rất ít (với thị trường Mĩ là nhỏ hơn hoặc bằng 5%). Đường ngang thường kéo dài từ 2 đến 3 tuần hoặc thỉnh thoảng là lâu hơn (trong vài tháng). Khi thị trường hình thành mô hình dáng đường ngang, điều này chỉ ra rằng áp lực của cung và cầu trên thị trường là tương đối cân bằng.

thực tại trong thời đoạn này các lệnh đặt mua hoặc bán đều miêu tả một sự kiệt lực. Những người muốn mua cổ phiếu thì phải tăng mức giá chào mua để khuyến khích người có cổ phiếu mà họ muốn bán cho họ, còn những người muốn bán thì với thị trường có cô động dạng đường ngang họ thấy rằng số lượng người mua đang ít dần và kết quả là họ phải giảm giá để có thể bán được những cổ phiếu của mình. Vì vậy một mức giá ngả nghiêng vượt ra ngoài mức dao động của mô hình đường ngang đang sinh ra trên thị trường sẽ là một dấu hiệu rõ ràng cho một thị trường lên hoặc xuống giá tùy thuộc vào hướng của ngả nghiêng vượt ra ngoài. Nhìn phổ biến mô hình đường ngang càng kéo vĩnh viễn và biên độ động dao càng nhỏ thì ý nghĩa của chao đảo vượt ra ngoài mô hình đường ngang càng mập.

Mô hình đường ngang thường diễn ra dài vừa đủ để khoảng thời gian sống sót của nó mang một ý nghĩa quan yếu đối với những người phân tách thị trường theo môn phái Dow. Những cô động vượt ra ngoài mô hình đường ngang có thể là dấu hiệu cho thấy mô hình này chính là những mức đỉnh hoặc đáy rất quan trọng của thị trường bởi nếu là đỉnh thì đó chính là thời đoạn “phân bổ” – giai đoạn ban sơ của một Bear Market; còn nếu dấu hiệu cho thấy nó có thể là mức đáy của thị trường thì đây là thời đoạn “tích tụ” – giai đoạn đầu của một Bull Market. Thông thường nhất, nó đóng vai trò như một thời kỳ yên ổn tĩnh thuộc thời đoạn rốt cuộc trong quá trình sinh ra hoặc thuộc thời đoạn củng cố xu thế cấp 1 của thị trường. Trong những trường hợp đó mô hình này đóng vai trò như những sóng cấp 2. Mức biến động 5% cũng hoàn toàn chỉ là một mức biên độ được xác định theo kinh nghiệm vì trên thực tế rằng mô hình đường ngang có rất nhiều điểm tương đồng với mô hình cũng có nhiều biến động ngang với biên độ to hơn nhưng mà nhị biên của nó vẫn được xác định khá rõ ràng và tương đối chuẩn nên cũng được tính là một loại mô hình đường ngang.

11. Chỉ dùng mức giá đóng cửa để nghiên cứu.

Lý thuyết Dow không quan tâm và ít đề cao tới các mức biến động giá (thậm chí là cả mức giá cao nhất và thấp nhất) trong ngày mà chỉ quan hoài tới những số liệu cuối ngày giao dịch, chả hạn như mức bình quân giá bán cuối cung trong ngày.

phê duyệt một thị trường với xu thế căn bản là tăng giá và đang ở thời điểm giá tăng và đạt mức đỉnh của ngày hôm đó vào 11 giờ sáng, ví thử lúc đó chỉ số bình quân đang là 152.45 sau đó lại giảm xuống mức giá đóng cửa là 150.70. Để có thể công nhận thị trường vẫn đang trong xu thế căn bản là tăng giá thì ở đợt tăng giá tiếp theo mức giá đóng cửa phải cao hơn 150.70. Trong trường hợp này mức đỉnh 152.45 không được quan hoài đến. Trái lại nếu ở đợt thứ 2, dù giá có đạt đến mức đỉnh ở 152.60 nhưng giá đóng cửa lại nhỏ hơn 150.70 thì hoàn toàn có cơ sở để nghi vấn liệu xu thế tăng giá ngày nay có còn tiếp tục hay không.

Trong những nắm gần đây, nhiều ý kiến đã được đưa ra bao quanh vấn đề liệu chỉ số giá bình quân phải tăng thêm hay giảm đi bao nhiêu so với giới hạn đạt được của đợt nao núng giá trước (đỉnh hoặc đáy) để có thể báo hiệu (xác nhận một xu thế thế hệ hoặc công nhận lại xu thế hiện tại) xu thế thị trường. Dow và Hamilton luôn rất chu đáo trong việc xem xét bất cứ một nao núng bé nào xen vào xu thế ngày nay làm giá thay đổi thậm chí tới 0. 01 Và hai ông đều cho rằng dấu hiệu đó hoàn toàn có thể là một dấu hiệt đúng. Nhưng mà hiện tại nhiều nhà phân tách cho rằng mức chỉnh sửa đó phải đạt chí ít 1.00 thế hệ có thể được coi là một dấu hiệu của thị trường.

12. Một xu thế cần được giả định rằng vẫn đang tiếp tục cho đến khi có một dấu hiệu thực sự về sự đảo chiều của xu thế đó được xác định.

qui định này là một trong những phương pháp có nhiều ý kiến bàn cãi nhất. Nhưng mà khi được hiểu chuẩn xác nó vẫn có giá trị rất lớn trong phân tích thị trường. Nguyên lý thứ mười nhị giúp phòng ngừa với những chỉnh sửa (phản ứng) quá sớm trong quan điểm về thị trường, theo như chúng ta hay nói là “cầm đèn chạy trước ô tô”, của bất kì nhà đầu tứ nào. Điều này không nhằm làm nhà đầu bốn trì hoãn hành động của mình lại một cách không quan trọng, cho dù là chỉ một phút, khi những dấu hiệu về sự chỉnh sửa của xu thế thị trường là đã rõ ràng, nhưng mà nó nhắc nhở một điều rằng lợi thế sẽ nghiêng về phía những người biết chờ đợi cho đến khi họ chắc chắn về tình hình thị trường và rõ ràng sẽ không nghiêng về những người quá nóng vội với hành động của họ. Khả năng xảy không thể được phát hiện một cách rõ ràng vì thực chất của nó là những biến động thực tế của thị trường và chúng thay đổi thường xuyên. Bull Market không thể lên giá mãi và Bear Market thì sớm muộn cũng đạt đến đáy của nó. Khi một xu thế cấp 1 của thị trường vừa thế hệ được hiện ra thì cho dù có những chao đảo trong ngắn hạn ta vẫn có thể kiên cố rằng nó không chỉnh sửa, nhưng mà nếu nó kéo dài càng lâu thì mức kiên cố càng ít dần đi, các điểm tái xác nhận xu thế thị trường cũng có giá trị ít dần đi. Động lực của người mua và kỹ năng bán được những cổ phiếu với giá cao hơn giá mua để kiếm lời sẽ ngày càng thấp giả dụ Bull Market đã sống sót trong nhiều tháng và rõ ràng là thấp hơn khi nó mới hình thành.

Một hệ quả tất yếu từ qui định này đó là khi đã có những dấu hiệu về sự chỉnh sửa của xu thế thị trường thì sự thay đổi đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Thành thử bất cứ nhà đầu bốn nào cũng cần phải theo dõi thị trường một cách thường xuyên.

Thứ Hai, 26 tháng 3, 2018

Chỉ dẫn thiết lập DATAFEED và thay đổi hung tàn LIỆU đến AMIBROKER

Phần mềm datafeed là phần mềm thay đổi tàn ác liệu kinh doanh thị trường chứng khoán của công ty Vndriect, đây là một trong những phần mềm bổ trợ cho các chủ đầu tư kinh doanh thị trường chứng khoán trong vấn đề phân tích ác ôn liệu đầu tư và chứng khoán theo trường phái phân tích công nghệ. Bài luận sẽ chỉ dẫn Các bạn cách ăn và cài đặt phần mềm cập nhật ác nghiệt liệu thị trường chứng khoán này.

Ưu với nhược điểm của phần mềm update tàn ác liệu kinh doanh chứng khoán mang lại Amibroker của Vndriect

Ưu điểm:

  • cập nhật ác ôn liệu Realtime
  • đơn thuần dễ sử dụng.
  • mọi Ác liệu EOD lịch sử
  • cập nhật LIÊN TỤC trong phiên
  • chủ động sắp xếp bảng giá mã hưởng quyền
  • đã có cập nhật Intraday mã cửa hàng liên tục trong phiên

Phần mềm cập nhật dữ liệu chứng khoán cho Amibroker

Phần mềm cập nhật ác nghiệt liệu kinh doanh chứng khoán mang lại Amibroker

Nhược điểm:

  • tải khó hiểu

biện pháp chuyên chở phần mềm update ác nghiệt liệu đầu tư và chứng khoán Datatfeed mang đến Amibroker

Anh chị em tại trực tiếp phần mềm update hung tàn liệu thị trường chứng khoán đến Amibroker Tại Đây

gợi ý biện pháp mua datafeed đến Amibroker

một – Xem hướng sở hữu Amibroker bằng chữ Tại Đây

2 – Xem Clip gợi ý mua Amibroker bởi video gợi ý dưới đây :

https://www.youtube.com/watch?v=98wq1DPsQCg

Chúc quý chủ đầu tư dự án đầu tư và chứng khoán thành phầm với tác dụng. Xin cảm ơn